Cho đến nay vị trí của Pà - tẻn trong bản đồ các dân tộc ở Việt Nam vẫn chưa được giải quyết. Trước đây có người như Lunet de Lajonquière hay Điguet xếp Pà-tẻn vào nhom Dao có một số từ vị chung, nhưng hai ngôn ngữ này rất khác nhau. Hiện nay hai quan điểm về vị trí của Pà-tẻn trong bản đồ của các dân tộc Việt Nam như vậy vẫn còn tồn tại trong một số nhà nghiên cứu nước ta.
Bài nghiên cứu nhỏ này được viết trên cơ sở tài liệu điền dã dân tộc học mà bản thân tác giả đã thu lượm được qua các đợt đi khảo sát các tộc người Mèo, Dao Pà-tẻn ở Tuyên Quang và Hà Giang. Nó góp phần xác định vị trí của Pà-tẻn trong bản đồ các dân tộc Việt Nam.
Pà-tẻn còn được gọi là Mán Pà-tẻn hay Dao Pà-tẻn. Theo Bonifacy, tên tự gọi của đồng bào Pà-tẻn là Y viang nhè, dịch nghĩa là người đẵn gỗ. Theo điều tra của chúng tôi , tên tự gọi của đồng bào là Pa Hông hay Hông. Đồng bào tự gọi mình là PaHông me( người Hông). Hiện nay còn chưa giải thích một cách có thuyết phục ý nghĩa của chữ Hông. Còn tên gọi Pà-tèn, tức là tên các đồng bào, thì là do từ hai chữ âm Hán Bát tính mà ra. Bát tính nghĩa là 8 họ. Tộc người có 8 họ gọi là Pà-tẻn. Tám họ là: Trần, Phùng, Đắc, Lưu, Đặng, Lam, Văn, Lãnh, hay theo tiếng dân tộc: Sình, Phù, Tải, Lùi, Tẩu, Lan, Ván, Hũng.
Hiện nay ở Việt Nam người Pà-tẻn cư trú chủ yếu ở huyện Bắc Giang tỉnh Hà Giang. Ở đây có khoảng trên 200 hộ Pà-tẻn với số lượng trên dưới 1000 người, sống ở xã Tân Trịnh, Yên Bình, Tân Lập, Khuê Linh, Hữu Sản. Trong các xã ấy, đồng bào sống nhiều nhất ở xã Tân Trịnh (gần 120 hộ), và ít nhất ở xã Hữu Sản (7 hộ). Vào khoảng năm 1962 ở huyện Chiêm Hóa tỉnh Tuyên Quang có 6 hộ Pà-tẻn từ Hà Giang về, nhưng nay không còn nữa. Trước đây có người cho rằng ở Bảo Lạc tỉnh Cao Bằng có 4 gia đình, khoảng 30 người, gọi là Na-ê (dịch nghĩa là người ăn lúa), cũng là một nhóm của Pà-tẻn (2). Hiện nay ở tình Yên Bái, có một số người dược xếp vào Dao, nhưng tiếng nói lại giống Pà-tẻn. Đây có phải là một nhóm Pà-tẻn không? Vấn đề còn phải tiếp tục nghiên cứu.
Người Pà-tẻn ở Việt Nam là từ Nam Trung Quốc di cư sang. Theo các cụ già người Pà-tẻn kể lại thì đồng bào di cư sang ta theo đường Hải Ninh. Từ đó lên Thái Nguyên, từ Thái Nguyên lên Na Hang (Tuyên Quang), rồi từ Na Hang lên Bắc Giang (Hà Giang). Theo tập tục của đồng bào, hiện nay khi người lớn tuổi chết, hồn phải được đưa qua biên giới. Trong “Bình hoàng khoáng diệp” có ghi ngành Mán thứ 8 trong số 12 ngành Mán đi vào phía sau miền núi Quế Lâm, gọi là Bát tính tôn man, hay là Mán Pà-tẻn. Quế Lâm có phải địa điểm xuất phát của quá trình di cư của đồng bào không, hiện nay còn chưa kết luận được.
3
Việc tìm hiểu ba tộc người Mèo, Dao, Pà-tẻn theo chương trình nghiên cứu toàn diện điền dã Dân tộc học cho phép rút ra mấy nhận xét sau đây:
I.VỀ TÊN TỰ GỌI
Tên tự gọi ba tộc người nay không giống nhau. Tên tự gọi của Mèo là Mông (nghĩa là người). Tên tự gọi của Dao là Kim miền (tức là người ở rừng núi). Tên tự gọi của Pà-tẻn là Hông.
II. VỀ TIẾNG NÓI
Lấy 95 từ vị cơ bản của 3 ngôn ngữ Mèo, Dao, Pà-tẻn, lập bản so sánh(1) chúng tôi nhận thấy trong số 95 từ ấy có 11 từ cả 3 ngôn ngữ giống nhau. Ngoài ra giữa tiếng Mèo và Pà-tẻn có 20 từ giống nhau. Giữa tiếng Dao và Pà-tẻn có 10 từ giống nhau. Giữa Mèo và Dao có 6 từ giống nhau. Như vậy giữa 3 ngôn ngữ nói trên, Mèo và Dao giống nhau: 11 + 6 = 17 từ trên 95 từ, tức là giống nhau dưới 18%. Ngôn ngữ Dao và Pà-tẻn giống nhau: 11 + 10 = 21 từ, tức 20%. Ngôn ngữ Mèo và Pà-tẻn giống nhau: 11 + 20 = 31 từ, tức 32%
Nhận xét tổng quát có thể rút ra là:
a) Ngôn ngữ Pà-tẻn một mặt giống với ngôn ngữ Mèo, mặt khác giống với ngôn ngữ Dao.
b) Ngôn ngữ Pà-tẻn giống với ngôn ngữ Mèo nhiều hơn là giống với ngôn ngữ Dao. Cần nói thêm về cú pháp, nói chung cả 3 ngôn ngữ đều giống nhau. Thứ tự trong câu là: động từ, chủ từ, túc từ. trong khi ở cả 3 ngôn ngữ hình dung từ đứng sau danh từ (áo trắng), thì trong một số trường hợp khác tiếng Mèo và tiếng Pà-tẻn lại giống nhau và khác với tiếng Dao. Vị dụ với Mèo và Pà-tẻn thì thịt lợn (h’ncay h’npua, ghê bê), với Dao thì lợn thịt (tùng o).
c) Trong một số trường hợp, nhờ tiếng Pà-tẻn làm vị trí trung gian nên ta có thể tìm ra mối liên hệ giữa tiếng Mèo và tiếng Dao. Ví dụ:
Việt Mèo Pà-tẻn Dao
sừng cu tư tơcoong chong
thổi súa phi-ô piệm
cá nghi-ê nhi, biảu biảu
nếu như dò lê alơpé phấy
III. VỀ VĂN HÓA
Cũng như về tiếng nói, văn hóa của 3 tộc người Mèo, Dao, Pà-tẻn có một số yếu tố chung giống nhau. Nếu ta nghiên cứu hoa văn trên y phục phụ nữ của 3 tộc người nói trên thì ta sẽ thấy tuy về mức độ phong phú thì có khác nhau (hoa văn Dao phong phú hơn hoa văn Mèo và Pà-tẻn) nhưng những mô típ hoa văn chủ đạo thì ở cả 3 tộc lại giống nhau. Đó là hoa văn hình chữ thập, hoa văn hình quả trám và các biến dạng của chúng.
Cũng như vậy, nếu ta tìm hiểu các câu chuyện truyền thuyết về nguồn gốc các dân tộc. Ở Mèo có chuyện nạn hồng thủy, ở Pà-tẻn và Dao có chuyện quả bầu. Không những về cơ bản nội dung các câu chuyện giống nhau. Ví dụ: ở cả 3 câu chuyện đều có tình tiết lên núi cao lấy 2 tấm đá lăn xuống, nếu hai tấm đá tự ghép lại với nhau thì anh em (hoặc chị em) cùng huyết tộc có thể sống với nhau thành vợ chồng sau khi vì nạn lụt lớn loài người đã bị chết sạch. Dấu vết của tình tiết này hiện nay còn lưu lại trong ngôn ngữ Mèo. Trong tiếng Mèo nửa cối xay trên gọi là: je dỏ xi tri (cối xay chồng), nửa cối xay dưới gọi là je dỏ xi nia (cối xay vợ).
Bên cạnh những yếu tố văn hóa chung, giữa 3 tộc người Mèo, dao, Pà-tẻn có một số yếu tố văn hóa riêng. Điều cần chú ý là trên một số yếu tố văn hóa, Pà-tẻn một mặt thì gần với Mèo, nhưng mặt khác thì lại gần với Dao.
A.Pà-Tẻn gần với Mèo
1. Pà-Tẻn xem Mèo là anh cả (miêu quao panh co), tự xem mình là em hai (pa hông pả thơ)
2. Trong một số họ của Mèo và Pà-tẻn có họ giống nhau như họ Trần
3. Về y phục và trang sức, phụ nữ Pà-tẻn cũng cạo quanh đầu, chít khăn xếp to vành như Mèo trắng, váy cũng giống Mèo.
4. Ở một số họ Mèo có tục bón cơm cho người chết. Trong một tài liệu lưu trữ của tỉnh ủy Hà Giang (báo cáo tổng kết công tác xã trọng điểm) có viết: “Thày cúng Pà-tẻn khi chết được ngồi ghế và được bón cơm”.
5. Thoát nạn hồng thủy là hai chị em, chứ không phải hai anh em như Dao.
B. Pà-tẻn gần với Dao
1. Cả 8 họ Pà-tẻn đều kiêng không ăn thịt chó, vì tin rằng có một bà tổ lấy chó làm chồng, và xem chó như tổ tiên của mình. Trước đây, đến bữa ăn, người Pà-tẻn phải cho chó ăn trước, khi chó chết phải chôn cất tử tế. Không được đặt thịt chó lên bàn thờ. Dấu vết xa xăm của tô-tem giáo này ở người Pà-tẻn mờ nhạt hơn người Dao. Người Pà-tẻn không còn nhớ chuyện Bàn Vương như người Dao. Tuy vậy ở đây mối quan hệ gần gũi giữa 2 tộc người được thể hiện khá rõ.
2. Trong các họ của Dao và Pà-tẻn, có nhiều họ giống nhau: Phùng, Đặng, Trần, Đái, Lưu, Lan.
3. Váy phụ nữ Pà-tẻn màu đỏ rất giống váy Dao Đại bản.
4. Nhờ quả bầu mà 2 anh em (chị em) thoát khỏi nạn hồng thủy, chứ không phài nhờ trống gỗ hoặc thuyền như ở người Mèo.
4
Từ những vấn đề được trình bày trên, có thể rút ra mấy kết luận sau đây:
1. Giữa 3 tộc người Mèo, Dao, Pà-tẻn, có một số yếu tố chung về ngôn ngữ và văn hóa.
2. Bên cạnh những yếu tố ngôn ngữ văn hóa giống nhau có thể dễ dàng nhận thấy, cũng có một yếu tố ngôn ngữ văn hóa, nếu đem so sánh giữa Mèo và Dao thì khó phát hiện được mối quan hệ gần gũi. Nhưng nếu lấy Pà-tẻn làm yếu tố trung gian thì có thể thấy được mối quan hệ Mèo-Dao. Nói cách khác, nhờ có vị trí trung gian của Pà-tẻn nên mối quan hệ Mèo - Dao càng được thể hiện chặt chẽ hơn.
3. Giữa 3 tộc người Mèo, Dao, Pà-tẻn, nếu đem ra so sánh và lấy Pà-tẻn làm điểm tựa, ta sẽ thấy ngôn ngữ Pà-tẻn giống với Mèo nhiều hơn là giống với Dao. Con về văn hóa thì Pà-tẻn lại gần với Dao hơn là gần với Mèo.
4. Tài liệu cho phép nghỉ rằng 3 tộc Mèo, Dao, Pà-tẻn hiện nay là do cùng một nguồn gốc mà ra. Hiện nay 3 tộc này có các tên tự gọi (tức là ý thức tự giác về khối cộng đồng người của mình) khác nhau. Điều này chứng tỏ trong những điều kiện lịch sử nhất định, từ gốc chung tách ra 3 tộc ấy, và thời điểm tách ra khá lâu. Nếu căn cứ vào tài liệu ngôn ngữ thì Dao phải tách ra trước (vì tỷ lệ số từ giống nhau càng ít thì thời gian tách ra càng sớm).
5. Căn cứ vào tài liệu hiện nay về tự giác dân tộc, về ngôn ngữ về văn hóa như đã trình bày ở trên, chúng tôi nghĩ rằng không thể xếp Pà-tẻn chung với Mèo, cũng như không thể xếp Pà-tẻn chung với Dao được. Có thể xếp Pà-tẻn có một vị trí riêng nhưng không hoàn toàn độc lập với Mèo và Dao như Bonifacy chủ trương, mà nằm trong nhóm Mèo - Dao với 3 tộc Mèo, Dao, Pà-tẻn có những điều kiện rất thuận lợi về lịch sử (xưa cùng chung một nguồn gốc) và hiện tại để sớm kết hợp và hòa hợp lại thành một khối thống nhất.
Phụ lục
BẢN SO SÁNH MỘT SỐ TỪ VỊ CƠ BẢN
CỦA 3 NGÔN NGỮ MÈO, DAO, PÀ - TẺN
|
Việt
|
Mèo
|
Pà-tẻn
|
Dao
|
1.
|
tất cả
|
sờ đơ i khỏa
|
pac lẽ
|
pa liền
|
2.
|
tro
|
tsâu
|
casị
|
xai
|
3.
|
võ
|
tơu
|
cảlu
|
đơp
|
4.
|
bụng
|
plàng
|
ahung
|
càxia, tu
|
5.
|
to
|
hlo
|
hlô
|
hlua
|
6.
|
chim
|
nòng
|
tnung
|
nỏ
|
7.
|
cắn, đốt
|
to, nzao
|
tà
|
ngặt
|
8.
|
đen
|
đồ, hồ
|
quáng
|
kịa
|
9.
|
máu
|
nsang
|
gai
|
yam
|
10.
|
xương
|
txang
|
caxông
|
bung
|
11.
|
cháy, đốt
|
slơcu, tri, trau tơ
|
phộ coòng
|
poa tàu chịa
|
12.
|
mây
|
chau phoa, phua
|
ong hò
|
mâu mổ
|
13.
|
rét
|
no, nao
|
nho
|
chuông
|
14.
|
đến
|
chò
|
nung
|
tháo
|
15. c
|
chết
|
tùa
|
tế
|
tê, tảy
|
16.
|
uống
|
hàu
|
ọ
|
hốp
|
17.
|
khô
|
khua
|
khê
|
gai
|
18.
|
tai
|
nghiề, kha ó
|
akhồngbu
|
mu nòm
|
19.
|
chó
|
dế, tiế
|
tliăng
|
tchú
|
20.
|
đất
|
ang, poa
|
calê
|
nia
|
21.
|
ăn
|
no
|
no
|
nhăn
|
22.
|
trứng
|
cây
|
cô
|
cháo
|
23.
|
mặt
|
moa
|
acôngmi
|
mching, may
|
24.
|
mỡ
|
trò
|
cảmhi
|
mmây
|
25.
|
lòng
|
plâu
|
piâm bê
|
piây
|
26.
|
lửa
|
tơư
|
ktơư
|
tàu
|
27.
|
cá
|
nghiê
|
tăm biểu
|
biảu nhi
|
28.
|
bay
|
da, rạc
|
da
|
dái
|
29.
|
bàn chân
|
xitơư, chề
|
abalu
|
chàu pênh
|
30.
|
cho
|
mua, pu, khơư
|
cợ
|
pun
|
31.
|
tốt
|
zrông, crang
|
|
nống lũng, khua
|
32.
|
xanh
|
nghioa, h’ntrua
|
diu
|
meng
|
33.
|
tóc
|
plàu
|
pi
|
piây, pi
|
34.
|
tay
|
tê
|
tpu
|
pua
|
35.
|
đầu
|
háu, tàu
|
àchupi
|
ngoong
|
36.
|
nghe
|
hnáo, nồng
|
ma
|
muống, hảy
|
37.
|
tim
|
plơu
|
anong
|
bật diu
|
38.
|
tôi
|
ú, cu
|
voòng
|
yia
|
39.
|
giết
|
tua
|
ta
|
tây
|
40.
|
biết
|
pàu, txơư
|
|
hin hay
|
41.
|
lá
|
mblòng
|
cả mo
|
nòm
|
42.
|
nằm
|
pư
|
pơ
|
puôi
|
43.
|
gan
|
pla, sa
|
aphing
|
han
|
44.
|
dài
|
dế, h’ntê
|
tô
|
dao
|
45.
|
con chấy
|
khâu, h’nsâu
|
ta nọ
|
nòm giây
|
46.
|
đàn ông
|
chí nin
|
kutòn
|
miền chằng
|
47.
|
nhiều
|
sa, h’ntoa
|
co
|
xam, quang
|
48.
|
thịt
|
ngra, h’ncay
|
gai
|
o
|
49.
|
núi
|
trồng
|
atông
|
kia, kchoong
|
50.
|
miệng
|
nghiau, khoa
h’châu
|
h’nxinh
|
tpánh
|
51.
|
tên(gọi)
|
h’npê
|
abô
|
bua
|
52.
|
cổ
|
chada
|
achơngong
|
chiăng
|
53.
|
mới
|
tsá, xia
|
xinh
|
xêang
|
54.
|
đêm
|
hmao, moh’ntrư
|
akhongbeo
|
h’nchong
|
55.
|
múi
|
ngiư, khoa h’ntrư
|
akhongbeo
|
h’nchong
|
56.
|
không
|
chimua
|
ảmê
|
mái mai
|
57.
|
một
|
i
|
yi
|
yệch
|
58.
|
người
|
mông, nình, heng
|
me
|
miền
|
59.
|
mưa
|
lò nà
|
đọ ang múng
|
tùy bi ủng
|
60.
|
đỏ
|
lia
|
hơ tớ
|
xí
|
61.
|
đường (sá)
|
ké mù
|
tcộ
|
chiau mình
|
62.
|
rễ (cây)
|
chàng h’ntông
|
tcôngpa
|
zùng
|
63.
|
cát
|
xua dê
|
|
piầy phay
|
64.
|
nhìn
|
pổ, say
|
jo
|
poan, mảng
|
65. h
|
hạt (giống)
|
nung
|
acá
|
nhim
|
66.
|
ngồi
|
jậu
|
nhông
|
chuôi
|
67.
|
da
|
tơử
|
Cảlíu
|
đốm
|
68.
|
ngũ
|
pú
|
pợ
|
puôi
|
69.
|
nhỏ
|
niê
|
jú
|
ton, pháy
|
70.
|
khói
|
po
|
|
xiếu
|
71.
|
đứng
|
sơ
|
sơ
|
xâu
|
72.
|
ngôi sao
|
hnòcrồ, nongen
|
acong
|
hấy
|
73.
|
đá
|
pojê
|
ajô
|
la piê
|
74.
|
mặt trời
|
hnô, luno
|
an hênh
|
pằn hoi, an hô
|
75. q
|
bơi
|
pàong, đã dề
|
pà ong
|
chiêu wâm
|
76.
|
đuôi
|
tư
|
tơ tợ
|
tuôi
|
77.
|
cái kia
|
tu tí, lu u
|
ong nhà
|
vua nòm cay
|
78.
|
cái này
|
lu nề
|
ninh nha
|
nay nòm cay
|
79.
|
mày
|
ò, cào, tơ
|
mú
|
mề
|
80.
|
lưỡi
|
mblay
|
Tỡmbơ
|
biệt
|
81.
|
răng
|
hna
|
tơmhi
|
nha
|
82.
|
cây
|
nđông
|
tơpa
|
diăng
|
83.
|
hai
|
ao
|
va
|
i
|
84.
|
di
|
mò
|
nhi
|
mình
|
85.
|
âm
|
cồ
|
bcông
|
chòm
|
86.
|
nước
|
dề
|
ong
|
wâm
|
87.
|
chúng tôi
|
pê
|
pú
|
yiabua
|
88.
|
cái gì
|
da chi
|
cà da
|
hái zũng
|
89.
|
trăng
|
dơú
|
quan
|
pẹ
|
90.
|
ai
|
tô từ
|
tilan
|
hái táo
|
91.
|
đàn bà
|
po nịa
|
cổ phê
|
miền xia
|
92.
|
vàng
|
dàng, càng
|
quơ
|
viăng, giàng
|
93.
|
nói
|
ha, hay
|
coong
|
coong
|
94.
|
mặt trăng
|
hii
|
alha
|
hlă, há
|
95.
|
tròn
|
dình, khềnh
|
cả loòng
|
chùn
|
96.
|
dày
|
pu
|
pọng
|
puộng
|
97.
|
dàn gối
|
dòng chung
|
a co chi
|
khềnh nghênh bọ
|
98.
|
móng chân
|
châu tơ
|
kẻ quý lu
|
châu độ goáy
|
99.
|
sừng
|
cu từ
|
tcong
|
chong
|
100.
|
ngực
|
hâu tsia
|
achọng
|
lơkhôt
|
Thông báo khoa học Sử học, tập IV,
Đại học Tổng hợp, Hà Nội, 1973
Phan Hữu Dật
No comments:
Post a Comment