1. Tây Nguyên nước ta
là vùng đất có vị trí rất quan trọng về chính trị, kinh tế và quốc phòng. Về
mặt địa lý tự nhiên, đây là vùng Nam Trường Sơn. Từ Bắc vào Nam Tây Nguyên được
chia thành 4 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc và Lâm Đồng. Về mặt lịch sử cư
trú, cư dân Tây Nguyên hiện nay có thể chia thành 2 lớp người. Lớp người đến cư
trú trong thời gian muộn hơn gồm có người Kinh và nhiều dân tộc thiểu số, trong
đó có các dân tộc ở Bắc Trường Sơn như Bru - Vân Kiều, trong thời gian gần đây
lại có các dân tộc thiểu số miền Bắc chuyển cư vào như: Tày, Nùng, Thái, Dao,
Mông, Mường, v.v.. Lớp cư dân cư trú lâu đời ở Tây Nguyên, trong các tài liệu
khoa học người ta thường gọi là cư dân bản địa, bao gồm các dân tộc thuộc 2 ngữ
hệ Nam Á và Nam
Đảo. Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme miền núi của ngữ hệ Nam Á có 9 dân tộc.
Theo số liệu Điều tra dân tộc ngày 1-4-1999, dân tộc Ba Na có 174.456 người.
Dân tộc Xơ Đăng có 127.148 người. Dân tộc HRê có 113.111 người. Dân tộc Cơ Ho
có 128.723 người. Dân tộc MNông có 92.451 người. Dân tộc Gié-Triêng có 30.243
người. Dân tộc Mạ có 33.338 người. Dân tộc BRâu có 313 người. Dân tộc Rơ Măm có
352 người.
Thuộc nhóm ngôn ngữ
Mã Lai của ngữ hệ Nam
Đảo, hay còn gọi là Maylayo - Pôlinêdiên, gồm có 4 dân tộc. Dân tộc Gia Rai có
317.557 người. Dân tộc Ê Đê có 270.348 người. Dân tộc RaGlai có 96.931 người.
Dân tộc Chu Ru có 14.978 người. Tổng cộng số dân của 13 dân tộc vốn cư trú xa
xưa ở Tây Nguyên là: 1.399.949 người.
Về mặt phát triển
kinh tế - xã hội, trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, các dân tộc Tây Nguyên
đều ở trong phạm trù tan rã của xã hội nguyên thủy. Trong xã hội đã có sự phân
hóa giàu nghèo, nhưng giai cấp chưa hình thành, vì chưa có đối kháng giai cấp
nên không có cơ sở để xuất hiện nhà nước. “Vua Nước” và “Vua Lửa” ở dân tộc Gia
Rai, về thực chất chỉ là các tù trưởng lớn kiêm pháp sư ở một vùng mà thôi. Đặc
thù trong phát triển xã hội ở Tây Nguyên là trong khi các dân tộc nói ngôn ngữ
Mã Lai còn mang nặng truyền thống mẫu hệ, thì các dân tộc nói ngôn ngữ Môn -
Khơme đã chuyển sang phụ hệ. Công xã của cư dân Tây Nguyên là công xã nông
thôn, hay còn gọi là công xã láng giềng, nhưng khác với người Kinh, vì ở Tây
Nguyên bảo lưu nhiều thiết chế của xã hội nguyên thủy, nên trong khoa học, loại
công xã láng giềng của đồng bào gọi là công xã láng giềng nguyên thủy. Loại
hình kinh tế - chủ yếu của cư dân Tây Nguyên là làm nương rẫy, đao canh hỏa
chủng. Mặc dù kinh tế - xã hội chưa được phát triển cao, nhưng các dân tộc Tây
Nguyên đều có sắc thái văn hóa đa dạng, phong phú, độc đáo làm cho văn hóa Việt
Nam
trăm hương ngàn sắc thống nhất trong đa dạng.
Các dân tộc thiểu số
trên vùng đất này đã đoàn kết tương trợ với nhau và với người Kinh, cùng các
dân tộc thiểu số khác trong nước chuyển cư đến, trong quốc gia Việt Nam thống
nhất, mà các dân tộc đều là thành viên gắn bó máu thịt và đều cùng chung một
vận mệnh lịch sử.
2. Trong tác phẩm Nguồn
gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước, Ăngghen cho rằng phân
công lao động và hệ quả của sự phân công lao động đã làm cho xã hội nguyên thủy
tan rã. Ăngghen đã đề cập đến 3 sự phân công lao động vĩ đại trong xã hội
nguyên thủy. Kết quả của sự phân công lao động lần 1 là bộ phận cư dân chăn
nuôi du mục tách ra khỏi khối người làm nghề trồng trọt. Hệ quả của phân công
lao động lần 2 là thủ công nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp. Ở ngưỡng của thời
đại văn minh, kết thúc thời đại nguyên thủy, đó là lúc tầng lớp thương nhân ra
đời.
Cần thấy rằng 3 sự
phân công lao động đó diễn ra ở thời đại đồ đồng và thời đại đồ sắt, nghĩa là ở
giai đoạn muộn của xã hội nguyên thủy. Xã hội loài người khi mới hình thành ở
thời đại hậu kỳ đá cũ, cách ngày nay khoảng 5-4 vạn năm đã bắt đầu trải qua một
hình thái phân công lao động đơn sơ hơn, đó là sự phân công lao động tự nhiên,
gồm có 2 loại, 1 là phân công lao động theo giới, nam và nữ, căn cứ vào thể
chất c on người, căn cứ vào chức năng của giới tính, và hoạt động sản xuất để
sinh tồn, theo sự phân công này đàn bà chuyên lượm hái, đàn ông chuyên săn bắt
và săn bắn. Sự phân công lao động tự nhiên thuộc loại 2 là phân công lao động
theo lứa tuổi. Mỗi thành viên trong xã hội theo lứa tuổi mà cống hiến sức lực
của mình cho cộng đồng. Nói chung người ta chia xã hội ra các lớp người: vị thành
niên, thành niên và người già. Trong cuộc đời của mỗi con người, có những cái
mốc rất quan trọng, chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác, bao giờ cũng
được đánh dấu bằng những lễ nghi từ đơn giản đến phức tạp, mang đậm những yếu
tố tín ngưỡng tôn giáo và văn hóa tộc người, trong khoa học người ta gọi đó là
các nghi lễ chuyển giai đoạn, từ sinh đẻ, dậy thì, lễ thành đinh, kết hôn đến
lên lão và qua đời, tang ma. Mốc nào cũng có tầm quan trọng của nó, nhưng đáng
chú ý là 2 mốc sau: lễ thành đinh và lên lão. Lễ thành đinh phổ biến ở các dân
tộc trên thế giới, điển hình là ở thổ dân châu Úc. Ở nước ta, tục cấp sắc của
người Dao là dấu vết xa xưa của lễ thành đinh nguyên thủy. Với lễ thành đinh,
con người từ vị thành niên trở thành thành niên, 1 thành viên bình đẳng, với
đầy đủ các nghĩa vụ và quyền lợi trong một cộng đồng. Còn tục lên lão, ngay ở
người Việt cách đây không lâu, trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, vẫn còn tồn
tại phổ biến. Cứ đến tuổi 50, đàn ông làm lễ khao làng để lên lão, hết làm các
nghĩa vụ phu phen tạp dịch, ra đình làng được mời ngồi chiếu trên, bàn bạc
quyết định công việc của làng xã. Hội nghị Diên Hồng đời Nhà Trần để quyết định
chủ trương chống quân Nguyên Mông, bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc, chính là
cuộc hội nghị của các bô lão.
Như vậy sự phân tầng
xã hội theo lứa tuổi có 4 thang bậc: trẻ nhỏ, thiếu niên, trưởng thành và cao
niên. Hai bậc thang đầu là thời trẻ con, 2 bậc thang sau là thời “người lớn”,
trong đó thang bậc cuối cùng là các già làng (lão hạng).
Từ những vấn đề vừa
trình bày, có thể rút ra 2 nhận xét:
Một là, già làng, thiết chế già làng hay
chế độ lão quyền có nguồn gốc rất xa xưa trong lịch sử loài người. Nó bắt nguồn
từ sự phân công lao động tự nhiên theo lứa tuổi.
Hai là, chế độ lão quyền chỉ tồn tại và
phát huy sức sống trong xã hội nguyên thủy, hay trong xã hội có giai cấp tiền
tư bản chủ nghĩa nhưng còn mang ít nhiều tàn dư của xã hội nguyên thủy.
3. Vậy già làng có
những đặc điểm gì? Chế độ già làng là gì? Vai trò của già làng trong xã hội
truyền thống Tây Nguyên như thế nào?
Thuật ngữ già làng
không phải để chỉ một cá nhân mà để chỉ một lớp người cao tuổi trong một buôn
làng nào đó ở Tây Nguyên. Lớp người này đồng nhất ở tuổi tác, nhưng không đồng
nhất ở các lĩnh vực khác như nguồn gốc dân tộc, thời gian cư trú trong buôn
làng đặc biệt không đồng nhất về phẩm chất cá nhân như hiểu biết sâu sắc về tập
quán tín ngưỡng, luật tục của dân tộc, kinh nghiệm trong lao động sản xuất,
chiến đấu bảo vệ buôn làng, tổ chức và quản lý, khoa ăn nói, tài thuyết phục
người khác, ngoại giao với các buôn làng khác, v.v…
Như vậy trong một buôn làng chỉ có một bộ phận nhỏ là người già. Trong số các
cụ già này chỉ có một ít cụ nổi bật hơn để có thể tham gia vào việc tổ chức và
quản lý buôn làng, trong số ít các cụ này chỉ có vài ba cụ xứng đáng được làm
thủ lĩnh của buôn làng gọi là chủ làng. Nếu sơ đồ hóa vấn đề được nêu, theo
hình dung của TS.Lưu Hùng, trong cuốn Buôn làng cổ truyền xứ Thượng, ta
có những vòng tròn đồng tâm như sau (ở dân tộc Xtiêng):
a) Vòng tròn ngoài cùng là dân làng:
Bon
b) Vòng tròn thứ 2 từ ngoài vào là
lớp người già nói chung: Mranh, hoặc Hranh.
c) Vòng tròn thứ 3 từ ngoài vào: các
bô lão có uy tín cao: Bù Knông.
d) Vòng tròn thứ 4 (trong cùng): Thủ
lĩnh làng: Tom bon.
Trong tác phẩm Chống
Đuyrinh, Ăngghen nhận xét như sau:
Ngay từ đầu, trong
mỗi công xã đó (tức là công xã nông nghiệp nguyên thủy), có một số lợi ích
chung nào đó mà việc gìn giữ phải trao cho những cá nhân, tuy có sự kiểm soát
của toàn thể: như là xét xử những vụ tranh chấp; trừng phạt những kẻ lạm quyền,
như là trông nom các ngồn nước, nhất là ở các xứ nóng, sau cùng là những chức
năng tôn giáo, do tính chất nguyên thủy và dã man của hoàn cảnh. Việc giao phó
những chức năng như thế, chúng ta cũng thấy có trong những cộng đồng nguyên
thủy ở bất cứ thời nào cũng như trong những cộng đồng cổ nhất của Máccơ ở
Giecmani và hiện nay ở Ấn Độ.
Ở Tây Nguyên, cá nhân
được công xã trao cho những nhiệm vụ đó chính là chủ làng. Chủ làng là người do
dân làng theo truyền thống dân chủ nguyên thủy cử ra, suy tôn. Không phải theo
thế tập, cha truyền con nối (ở cư dân Môn - Khơme) hay theo dòng mẹ (ở cư dân
nói ngôn ngữ Mã Lai), cũng không phải theo định kỳ, một số năm rồi dân làng cử
người mới, mà thời gian đảm nhiệm chức vụ này có thể lâu dài, khi quá già yếu
không đảm đương nổi hoặc không, xứng đáng về đạo đức phẩm chất hoặc năng lực
điều hành nữa, hay khi trong làng xảy ra các dịch bênh, thiên tai, mất mùa, dân
làng phải thay người khác vì người chủ làng đương nhiệm theo quan niệm của họ
không được thần linh phù trợ.
Lúc đầu chủ làng được
lựa chọn trong số người có uy tín nhất trong hàng ngũ bô lão của làng, căn cứ
vào phẩm chất và năng lực của cá nhân là chính. Tuy nhiên cũng có trường hợp
dân làng suy tôn người có công lập làng, hoặc hậu duệ của người ấy làm chủ
làng. Về sau trong tiêu chuẩn để suy tôn chủ làng còn thêm yếu tố tài sản, vì
trong xã hội đã có sự phân hóa giàu nghèo đáng kể, hay khi trong xã hội đã manh
nha xuất hiện giai cấp.
Trong xã hội Tây
Nguyên truyền thống, người chủ làng tuy nắm quyền lực công cộng, nhưng không
độc đoán chuyên quyền, chủ làng chỉ đại diện cho dân làng, cho cộng đồng, thực
hiện ý nguyện của dân làng, quyền lực của chủ làng không phải là quyền lực cá
nhân, ông ta chưa đứng tách ra, càng chưa đứng lên trên cộng đồng, mà cũng chỉ
là một thành viên của cộng đồng, cùng ăn, cùng ở, cùng lao động sản xuất, cùng
chiến đấu để bảo vệ buôn làng như các thành viên khác của cộng đồng.
Ở Tây Nguyên, người
chủ làng được đặt trong bối cảnh của công xã láng giềng nguyên thủy, gắn liền
với chế độ tự quản, và luật tục để xử lý và điều chỉnh các mối quan hệ trong
cuộc sống đời thường của mọi thành viên trong cộng đồng. Sự suy tôn, ngưỡng
vọng của dân làng đối với chủ làng thể hiện ở các biểu tượng cao đẹp mà họ gắn
với chủ làng, người thủ lĩnh của họ. Người Ba Na và người Gia Rai thường lấy
cây cau làm biểu tượng người chủ làng. Người Ê Đê gọi người chủ làng “Đầu bến
nước (Kapinca), cây cau đầu làng (Ân mownang khua buôn sang), cây đa đầu suối
(Mơ nút koca), cây sung đầu làng (Howrra ko buôn), v.v.. Cần lưu ý ở người Ê
Đê, cây đa và cây sung có vị trí quan trọng trong đời sống tín ngưỡng của đồng
bào, gắn với thần số mệnh “Thần mẹ cưu mang) (Yang am-a bă).
Nếu nghiên cứu sâu về
Tây Nguyên sẽ thấy ở một số dân tộc như Ba Na, MNông (nhóm Mnong Gar), Xơ Đăng
(các nhóm Ha Lăng, Ca Dong), Cơ Ho (các nhóm Chil, Lat), v.v. còn tồn tại hình
thức lãnh đạo tập thể. Trong buôn làng có đồng thời vài ba cụ làm chức năng thủ
lĩnh làng, trong khoa học người ta gọi đó là Hội đồng già làng chưa tách riêng
ra một ai đứng đầu trong nhóm để làm thủ lĩnh như các buôn làng khác. Ở một số
nơi, ví dụ ở người Gia Rai, các cụ trong nhóm Hội đồng già làng tụ họp lại, đào
một cái hố đất, mỗi cụ bỏ vào đấy một hạt gạo và khấn mời thần linh đến lấy gạo
đi. Nếu qua đêm, hạt gạo của cụ nào được kiến tha đi trước tiên thì cụ ấy được
xem như đã có sự chỉ định của thần linh để trở thành chủ làng. Về Hội đồng già
làng ở Tây Nguyên, nhà khoa học Pháp J. Dournes viết như sau: “Các người già
rất được tôn trọng. Họ họp thành Hội đồng già làng, và thành viên đương nhiên
của tòa án làng, được tham khảo ý kiến đối với mọi quan hệ với làng và là trọng
tài đương nhiên của mọi xích mích giữa thành viên của gia đình trong làng”.
Trong một số trường
hợp thanh thế của chủ làng, nhớ sự kết hợp giữa tuổi già, địa vị xã hội, cao và
sự giàu có, mà vượt ra khỏi phạm vi buôn làng mình, ảnh hưởng bao trùm một vùng
gồm một số làng.
Trong bộ máy tự quản
buôn làng Tây Nguyên, ngoài chủ làng còn có một số nhân vật khác, cũng được sự
tôn kính của dân làng, là các cộng sự, giúp việc đắc lực cho chủ làng. Đó là
những thầy cúng, thầy phù thủy chăm lo lĩnh vực tín ngưỡng, kiêm lang vườn chữa
bệnh bằng ma thuật và y học dân gian. Đó là những người chỉ huy quân sự, trong
trường hợp chủ làng không kiêm nhiệm, để bảo vệ buôn làng. Đó là những người
tham gia xét xử, điều chỉnh các mối quan hệ giữa các thành viên trong làng,
thông qua tòa án phong tục. Đó còn là các vị chủ đất hay chủ rừng. Họ là đại
diện của dòng họ đã thiết lập quyền sở hữu đầu tiên trên địa vực, cung chủ làng
quản lý và sử dụng đất, rừng của làng đó là chủ nhà rông. Ở một số nơi đó còn
là trưởng thủy (ở người Chu Ru) coi việc điều phối nước tưới ruộng.
Tóm lại, trong xã hội truyền thống Tây
Nguyên, già làng với vai trò trung tâm và là linh hồn của cộng đồng, như người
chỉ huy dàn hợp xướng của công xã là chủ làng, là những người có vị trí cực kỳ
to lớn trong tiến trình tôn tại và phát triển của cộng đồng. Họ chính là người
tổ chức cộng đồng khai sơn phá thạch, thành lập buôn làng, tổ chức sản xuất để
nuôi sống cộng đồng, điều hòa các mối quan hệ cho cộng đồng phát triển, tổ chức
phòng vệ để bảo vệ buôn làng, bảo tồn văn hóa truyền thống và chuyển tải văn
hóa đó cho các thế hệ tiếp theo. Các dân tộc Tây Nguyên trong đại gia đình Việt
Nam
thống nhất cùng chung vận mệnh lịch sử với các dân tộc, cùng với các dân tộc
anh em đoàn kết, tương trợ với nhau trong sản xuất và chiến đấu, trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, với vai trò cực kỳ to
lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh, các dân tộc Tây Nguyên ngày càng phát huy tiềm
năng dồi dào của mình, đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng chung của cả
nước, trong đó nổi bật là vai trò gương mẫu đi đầu, tổ chức động viên, khuyến
khích dân làng và tầng lớp thanh niên đi theo Đảng, Bác Hồ và cách mạng. Đã có
biết bao tấm gương tiêu biểu góp phần tô thắm truyền thống Tây Nguyên anh hùng,
bất khuất. Nếu trước năm 1945 có N’Trang Lơn, thì trong kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ nổi lên các gương tiêu biểu mà cả nước và thế giới đều biết đến như
Bi Năng Tắc, Đinh Núp, Hồ Vai, v.v…
4. Công xã láng giềng
nguyên thủy và cùng với nó già làng và chủ làng là những phạm trù lịch sử,
nghĩa là không phải bất biến, tồn tại mãi mãi, mà là có hình thành, phát triển
và tiêu vong cùng với đà phát triển theo hướng đi lên của lịch sử dân tộc và
lịch sử loài người.
Từ năm 1945 đến nay,
xã hội Việt Nam
nói chung và các vùng dân tộc thiểu số nói riêng đã có những chuyển biến và
thay đổi lớn lao. Trong 2 cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ xâm lược, một bộ
phận đồng bào Tây Nguyên sống dưới sự kìm kẹp của chế độ thực dân để quốc và
ngụy quyền. Một bộ phận lớn sống trong vùng giải phóng, trong các căn cứ địa
cách mạng và kháng chiến, đã có những phát triển nhiều mặt trên các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, văn hóa. Từ năm 1975 đến nay, trên đất nước Việt Nam
độc lập, thống nhất đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt
từ năm 1986 đến nay khi đất nước đi vào con đường đổi mới, công nghiệp hóa và
hiện đại hóa thì bộ mặt Tây Nguyên ngày nay không còn như xưa nữa. Một số nơi
từ công xã láng giềng nguyên thủy đã chuyển sang công xã láng giềng, nghĩa là
thiết chế của xã hội thị tộc không còn phát huy tác dụng mạnh mẽ nữa. Hệ thống
chính trị mới đã bao trùm lên cả Tây Nguyên. Các tổ chức Đảng, chính quyền, các
đoàn thể quần chúng các cấp đều được thiết lập ở Tây Nguyên như các vùng khác
của đất nước. Kinh tế nương rẫy không còn thống trị, nhiều nơi đã chuyển sang
làm ruộng nước. Kinh tế vườn, trang trại được hình thành; ở những nơi còn làm
nương rẫy thì kỹ thuật canh tác, công cụ sản xuất cũng tiến bộ hơn trước. Hệ
thống giáo dục các cấp được thiết lập. Dân trí từng bước được nâng cao. Mê tín
dị đoan bị đẩy lùi một bước. Một đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học giáo
dục, kỹ thuật, văn nghệ sĩ người dân tộc thiểu số đang hình thành và đang trên
đà phát triển về số lượng và chất lượng. Trong tương lai không xa, khi sự
nghiệp công nghiệp hóa và hiện địa hóa ở Tây Nguyên được hoàn thành thắng lợi,
thì tàn dư của xã hội nguyên thủy sẽ mất đi, già làng và chủ làng tất yếu cũng
kết thúc vai trò lịch sử của nó.
Tuy nhiên, hiện nay
khi các thiết chế xã hội nguyên thủy dưới các mức độ khác nhau đang còn tồn tại
ở Tây Nguyên thì già làng và chế độ già làng dù bị hạn chế so với trước vẫn còn
sức sống và tiếp tục phát huy tác dụng trong cuộc đời thường của các dân tộc.
Điều cần chú ý là ta
đi lên xã hội chủ nghĩa không phải với quan điểm hư vô chủ nghĩa, đoạn tuyệt
với quá khứ mà hiện tại, quá khư và tương lai là các mắt xích của một quá trình
thống nhất không thể tách rời. Nghệ thuật lãnh đạo là phải biết chắt lọc cái gì
là tích cực của di sản quá khứ, lồng vào nó một nội dung mới, để phục vụ cho sự
nghiệp cách mạng nước ta hôm nay.
Đánh giá vai trò của
công xã trong lịch sử, khi đề cập đến công xã nông thôn ở Nga, Mác đã gọi đó là
thế giới vi mô cục bộ, coi sự biệt lập là điều làm cho nó yếu ớt và bị trở ngại
về mọi mặt. Lênin thì cho rằng muốn vượt qua hạn chế của công xã, phải nhiều
thế hệ làm mới xong, vì cần nhiều thời gian mới có thể cải tạo được tập quán và
tâm lý người tiểu nông. tuy nhiên, mặt khác các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác-Lênin cũng đã có quan điểm xử lý rất đáng được chú ý đối với công xã. Trong
công trình Bàn về vấn đè chủ nghĩa xã hội ở Nga, Ănghen cho rằng không
những có thể mà còn chắc chắn là sau thắng lợi của giai cấp vô sản và sau việc
xã hội hóa những tư liệu sản xuất ở các dân tộc Tây Âu, thì những nước vừa mới
bước vào con đường sản xuất tư bản chủ nghĩa và vẫn còn có chế độ thị tộc
nguyên vẹn hoặc những tàn dư của chế độ thị tộc có thể sử dụng những tàn dư đó
của sở hữu chung và những tập quán nhân dân tương ứng làm công cụ mạnh mẽ để
rút ngắn một cách đáng kể trong quá trình phát triển của mình lên chủ nghĩa xã
hội và có thể tránh được phần lớn những đau khổ và những cuộc đấu tranh mà ở
Tây Âu chúng ta phải trải qua.
Trong điều kiện cụ
thể của Tây Nguyên nước ta, già làng, hội đồng già làng, chủ làng chính là yếu
tố của xã hội thị tộc mà Ăngghen nói, ta có thể phát huy để xây dựng cuộc sống
mới ở Tây Nguyên.
Từ năm 1945 đến nay,
thực tế cuộc sống ở Tây Nguyên chứng tỏ rằng già làng không phải là lớp người
bảo thủ, quay lưng lại với cuộc sống mới, mà nhiều người trong số họ, bằng mồ hôi
và xương máu đã góp phần vào công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam, hơn
thế nữa họ còn tổ chức động viên con cháu, bà con trong dòng họ và dân làng
tham gia tích cực vào sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc một cách có hiệu
quả. Cố nhiên, trong cuộc sống mới, vai trò của họ không còn giữ nguyên được
tầm quan trọng trên tất cả các mặt của đời sống dân tộc. Tuy nhiên, cho đến nay
họ còn có vai trò nhất định, thể hiện trên các mặt sản xuất và bảo vệ buôn
làng, trong việc bảo tồn và truyền tải cho các thế hệ sau bản sắc văn hóa đa
dạng và độc đáo của dân tộc, trong việc bảo vệ tài nguyên môi trường sinh thái,
thảm thực vật, quần thể động vật, rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn, trong việc áp
dụng dược liệu địa phương, y học dân tộc phục vụ chăm sóc sức khỏe và bảo vệ sự
lành mạnh của giống nòi, đặc biệt trong việc tăng cường mối quan hệ giữa các
thành viên trong cộng đòng và giữa các dân tộc trong nước ta, bằng lỹ lẽ thuyết
phục, bằng luật tục góp phần điều chỉnh tốt đẹp các mối quan hệ để củng cố và
phát triển cộng đòng. Mọi người đều biết hiện nay ở Tây Nguyên đồng bào dân tộc
thiểu số định cư từ trước chỉ chiếm một phần ba số dân, còn lại là cư dân ở các
nơi chuyển đến sinh sống làm ăn. Sự giao tiếp giữa đồng bào tại chỗ và lớp
người đến sau được tăng cường và mở rộng. Những va chạm trong cuộc sống đời
thường giữa thành viên trong một đồng tộc và giữa các dân tộc là khó tránh
khỏi. Các thế lực thù địch lại có âm mưu diễn biến hòa bình, lợi dụng vấn đề
dân tộc và vấn đề tôn giáo để phá hoại sự nghiệp cách mạng nước ta. Thêm vào đó
còn là do hậu quả của chính sách chia để trị của phong kiến, nhất là của thực
dân vẫn chưa được khắc phục triệt để. Do lịch sử để lại, nên kinh tế - xã hội ở
nhiều vùng dân tộc và miền núi còn kém phát triển, mang nặng tính tự cấp, tự
túc, dựa nhiều vào tự nhiên, phương thức sản xuất, tập quán canh tác còn lạc
hậu. Trong những điều kiện như thế, già làng còn có vai trò quan trọng trong
việc giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết tương trợ giữa các dân tộc nước
ta trong điều kiện mới. Hiện nay hệ thống pháp luật của nước ta đã bao trùm lên
toàn nước. Tây Nguyên một bộ phận của Tổ quốc cũng nằm trong hành lang pháp lý
của cả nước. Tuy nhiên, trong những trường hợp cụ thể ta có thể áp dụng luật
tục thông qua già làng để điều chỉnh một số mối quan hệ giữa cư dân Tây Nguyên,
mà không trái với luật pháp chung của Nhà nước. Nếu trước đây “phép vua còn
thua lệ làng”, thì ngày nay, lệ làng, hương ước, quy ước nói chung trên toàn
quốc và nói riêng ở Tây Nguyên phải luôn tuân theo phép nước, nó là một bộ phận
bổ trợ đắc lực cho chủ trương, chính sách, của Đảng và pháp luật của Nhà nước
trong những trường hợp cụ thể ở Tây Nguyên.
Già làng Tây Nguyên
thuộc về tầng lớp trí thức của các dân tộc Tây Nguyên, có thể nói là lớp kem,
là tinh hoa của xã hội Tây Nguyên truyền thống. Dưới chế độ mới, tầng lớp trí
thức đó được xem là trí thức cũ. Vì trải qua nửa thế kỷ, xem như là một lĩnh
vực của thành tựu của cách mạng, ở Tây Nguyên, cũng như các vùng dân tộc thiểu
số khác, đã hình thành một đội ngũ trí thức mới bao gồm cán bộ quân, dân,
chính, Đảng các cấp từ cơ sở đến Trung ương, các nhà khoa học, giáo dục, văn
hóa nghệ thuật, v.v.. Tầng lớp trí thức cũ và mới ở Tây Nguyên là cái nền để
trên cơ sở đó nảy sinh những đại biểu tiêu biểu người dân tộc, nghĩa là những
người ưu tú tiêu biểu, tinh hoa của các dân tộc trong thời kỳ mới. Ở đây cần
phân biệt các khái niệm: đại biểu tiêu biểu người dân tộc thiểu số và đại biểu
tiêu biểu của dân tộc. Muốn là đại biểu tiêu biểu của dân tộc thì điều quan
trọng nhất là phải được chính các dân tộc suy tôn, thừa nhận. Trong số trí thức
cũ, già làng, chủ làng, nếu ai đó mà thoái hóa biến chất đi ngược lại lợi ích
của toàn dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là đi ngược lại lợi ích của chính bản
thân dân tộc mình, phá vỡ sự đoàn kết keo sơn truyền thống của dân tộc nước ta,
cản trở sự thực hiện các nguyên tắc bình đẳng - đoàn kết - tương trợ, cùng phát
triển của các dân tộc, như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ, thì tất
nhiên không phải, không còn là đại biểu tiêu biểu chân chính của dân tộc. Còn
trong hàng ngũ trí thức mới, nếu ai đó không gắn bó máu thịt với văn hóa dân
tộc, không nói được tiếng mẹ đẻ, không đọc được chữ dân tộc, xa lạ với tâm tư
nguyện vọng của dân tộc mình, dù là cán bộ quản lý, nhà khoa học, văn nghệ sĩ
nhưng khi về buôn làng thấy lạc lõng thì khó mà được dân làng suy tôn làm đại
biểu tiêu biểu của dân tộc mình. Đảng,
Nhà nước, Mặt trận luôn đánh giá cao vai trò của đại biểu tiêu biểu các dân tộc
trong tiến trình gương mẫu đi đầu, tổ chức dẫn dắt dòng họ buôn làng, dt mình
ra sức đóng góp vào sự nghiệp cách mạng mới của nước ta. Tuy nhiên muốn biến
nhận thức tư tưởng này vào thực tiễn cuộc sống, cần phải có cơ chế và một loạt
biện pháp liên hoàn hữu hiệu. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (Khóa IX) đã đề
ra một số giải pháp chủ yếu về công tác dân tộc, trong đó: “Có chính sách động
viên, bồi dưỡng, hướng dẫn và phát huy vai trò của những người có uy tín trong
đồng bào dân tộc trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở
các địa bàn dân cư vùng dân tộc và miền núi”[1].
Phan Hữu Dật
[1] Đảng
Cộng sản Việt Nam :
Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb.Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.42
No comments:
Post a Comment